CA 15-3 là một trong các chất chỉ điểm khối u. Nó có thể tăng lên khi bệnh lý ung thư tiến triển và giảm khi khối u đáp ứng với liệu pháp điều trị. Đặc biệt, CA 15-3 thường liên kết với ung thư vú. Do đó, xét nghiệm CA 15-3 và một số chất khác nữa thường được thực hiện để theo dõi những người bị ung thư vú di căn. Ngoài ra, nó có thể được sử dụng để phát hiện ung thư vú tái phát. Trong bài viết sau, Klept.com.vn sẽ cung cấp thông tin về xét nghiệm CA 15-3. Mời bạn đọc cùng theo dõi nhé!
CA 15-3 là gì?
CA 15-3 là tên viết tắt của kháng nguyên carbohydrate 15-3 (carbohydrate antigen 15-3) hay kháng nguyên ung thư 15-3 (cancer antigen 15-3). Đây là một loại protein được giải phóng vào máu bởi một số loại ung thư. Vì thế, CA 15-3 được xem như là một dấu ấn chỉ điểm ung thư. Tuy nhiên, nó cũng liên quan đến một số tình trạng không do ung thư khác.
Sinh học của CA 15-3?
Kháng nguyên CA 15-3 là một protein quyết định kháng nguyên (epitope) của một glycoprotein xuyên màng lớn. Nó có tên là protein MUC1, được sinh tổng hợp từ gen MUC1. Protein MUC1 còn được biết như là một mucin biểu mô đa hình hoặc kháng nguyên màng biểu mô. Nó được phân bố nhiều ở vùng ngoại bào, màng tế bào và dịch bào. Protein MUC1 thường biểu hiện quá mức và bị glycosyl hóa một cách bất thường ở vùng ngoại bào trong ung thư vú.
Về mặt sinh lý, protein MUC1 có thể tham gia vào sự kết dính tế bào. Thực hiện bằng cách làm giảm mức độ chất nền (matrix) nằm giữa tế bào – ngoại bào và làm giảm các tương tác tế bào – tế bào. Điều này cho thấy rằng protein MUC1 và sự biểu hiện quá mức của nó có mối liên quan nhân quả đến sự xâm lấn và di căn của ung thư.
Biểu hiện trong ung thư
Kháng nguyên CA 15-3 thường biểu hiện quá mức ở các tế bào tuyến ác tính. Gặp nhiều như trong ung thư tế bào tuyến vú. Khi CA 15-3 được sản xuất bởi các tế bào ung thư, nó đi vào dòng máu. Vì vậy, CA 15-3 trở thành một dấu ấn ung thư. Đặc biệt là giúp theo dõi sự phát triển, đáp ứng điều trị và tái phát của ung thư vú.
CA 15-3 chỉ tăng khoảng 10% số các ung thư vú giai đoạn sớm. Nhưng nó tăng đến 70% số các ung thư vú giai đoạn di căn. Có khoảng 30% ung thư vú không sản xuất CA 15-3.
CA 15-3 cũng có thể tăng ở một số ung thư khác như đại trực tràng, phổi, buồng trứng, nội mạc tử cung, dạ dày, tụy và ung thư biểu mô tế bào gan… Ngoài ra, nó cũng tăng nhẹ hoặc thoáng qua ở một số bệnh lành tính như viêm gan mạn, xơ gan, lao, sarcoidosis, bệnh vú lành tính, viêm nội mạc tử cung, Lupus ban đỏ hệ thống.. CA 15-3 còn tăng trong một số trạng thái sinh lý như phụ nữ có thai hoặc cho con bú.
Bộ gen quy định tất cả đặc điểm của cơ thể con người. Bất thường về gen sẽ biểu hiện thành các bệnh lý trên cơ thể. Đặc biệt những bệnh lý này còn có thể di truyền cho thế hệ sau. Có rất nhiều bất thường di truyền, trong bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu về: Hội chứng Marfan nhé.
Chỉ định và ứng dụng xét nghiệm CA 15-3 trên lâm sàng?
Xét nghiệm CA 15-3 để sàng lọc, chẩn đoán và phân giai đoạn cho ung thư vú?
Hiện tại, không có đủ dữ liệu khuyến cáo làm xét nghiệm CA 15-3 để sàng lọc, chẩn đoán hoặc phân giai đoạn ung thư vú. Nồng độ CA 15-3 tăng cao không hằng định trong ung thư vú giai đoạn đầu hoặc hoàn toàn không tăng trong một số trường hợp. Điều này gây khó khăn cho việc phát hiện ung thư giai đoạn đầu hoặc những khối u không biểu hiện kháng nguyên CA 15-3. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy CA 15-3 có giá trị tiên lượng trong ung thư vú giai đoạn đầu. Sự hiện diện của dấu chỉ điểm khối u này có thể tiên đoán một dự hậu xấu hơn.
Nồng độ CA 15-3 cũng có thể tăng lên trong cả tình trạng lành tính và ác tính. Điều này dẫn đến độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương tính thấp. Chính vì vậy gây khó khăn cho việc tầm soát, chẩn đoán hoặc phân giai đoạn ung thư vú.
Xét nghiệm CA 15-3 để phát hiện bệnh tái phát sau khi điều trị ung thư vú nguyên phát?
Hiện tại, vẫn chưa có đủ dữ liệu để khuyến nghị sử dụng xét nghiệm CA 15-3 để theo dõi sự tái phát của ung thư vú sau khi điều trị ung thư vú nguyên phát. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự gia tăng nồng độ CA 15-3 có thể dự đoán sự tái phát khoảng 5–6 tháng trước khi bắt đầu các dấu hiệu hoặc triệu chứng, hoặc dương tính của các xét nghiệm khác. Tuy nhiên, không có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nào cho thấy việc phát hiện và điều trị sớm các trường hợp tái phát không có triệu chứng này giúp cải thiện thời gian sống còn và chất lượng cuộc sống. Chi phí và tác động của việc tăng độc tính điều trị khi phát hiện sớm cũng không rõ ràng.
Xét nghiệm CA 15-3 để theo dõi trường hợp ung thư vú di căn
Độ nhạy và độ đặc hiệu chung của CA 15-3 đối với tất cả bệnh nhân ung thư vú là thấp. Tuy nhiên, độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn cho bệnh tiến triển (di căn) hoặc bệnh tái phát. CA 15-3 có thể tăng trong các khối u lớn hơn và ung thư vú giai đoạn cao hơn. Điều này phù hợp với vai trò trong chống kết dính, xâm lấn và di căn tế bào ung thư. Xét nghiệm CA 15-3, cùng với bệnh sử, khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, có thể được sử dụng để theo dõi đáp ứng của bệnh nhân ung thư vú di căn với liệu pháp đang thực hiện.
Như thế, xét nghiệm CA 15-3 không nên được sử dụng một mình để theo dõi đáp ứng điều trị. Tuy nhiên, nếu không có dấu hiệu nào khác về bệnh có thể đo lường được (tức là qua bệnh sử, khám hoặc hình ảnh), thì mức độ CA 15-3 tăng lên có thể cho thấy sự thất bại trong điều trị. Nồng độ CA 15-3 tăng giả có thể xảy ra trong 4-6 tuần đầu điều trị. Vì vậy nên thận trọng khi giải thích các kết quả này.
Xét nghiệm CA 15-3 để tiên lượng phẫu thuật
Một nghiên cứu của Lasham và cộng sự báo cáo rằng nồng độ microRNA (miR) -923 và CA 15-3 trong huyết tương tại thời điểm bệnh nhân phẫu thuật ung thư vú là những dấu hiệu tiên lượng độc lập. Do đó, chúng có thể giúp gợi ý, cùng với các yếu tố dự đoán bệnh học lâm sàng tiêu chuẩn, mà bệnh nhân cần được quản lý tích cực hơn hoặc giám sát sau phẫu thuật chặt chẽ hơn.
Giải thích kết quả xét nghiệm
Phạm vi giá trị bình thường có thể thay đổi một chút. Nhưng nhìn chung, giá trị CA 15-3 từ 30 (U / mL) trở xuống được coi là bình thường.
Như đã nói, một giá trị đơn lẻ thường ít có giá trị. Vì vậy cần đo thường xuyên trong quá trình điều trị. Để CA 15-3 thực sự có ý nghĩa, nó phải được đánh giá kết hợp với các yếu tố khác. Đó là khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và các xét nghiệm máu khác. Mức độ CA 15-3 giảm trong quá trình điều trị có thể cho thấy đáp ứng của khối u. Trong khi mức độ ổn định hoặc tăng lên mặc dù đã được điều trị đầy đủ có thể cho thấy khối u không đáp ứng với điều trị hoặc khối u đang tái phát.
Mức CA 15-3 cao hơn thường tương ứng với các giai đoạn tiến triển hơn của ung thư vú.
Mức cao nhất có xu hướng được thấy trong ung thư vú di căn, đặc biệt là gan hoặc xương. Tuy nhiên, mức độ CA 15-3 có thể thấp hoặc bình thường ngay cả trong bệnh tiến triển. Vì không phải tất cả các bệnh ung thư vú đều sản xuất CA 15-3. Hoặc ung thư vú giai đoạn đầu có thể không tạo ra mức CA 15-3 có thể phát hiện được. Vì vậy, CA 15-3 ở mức độ bình thường không có nghĩa là không bị ung thư.
Mặt khác, nồng độ CA 15-3 có thể tăng cao bất thường trong bốn đến sáu tuần đầu tiên sử dụng liệu pháp điều trị ung thư mới. Nhìn chung, bất kỳ phương pháp điều trị nào phá vỡ khối u đều có thể gây ra sự gia tăng thoáng qua các chất chỉ điểm khối u. Để tránh hiểu sai, xét nghiệm CA 15-3 không nên được thực hiện trong vòng hai đến ba tháng sau khi bắt đầu liệu pháp mới.
Điều quan trọng cần lưu ý là mức CA-153 có thể tăng cao ở những bệnh lý ác tính khác. Thậm chí là các tình trạng lành tính hoặc không có bệnh lý nào. Trái ngược với ung thư, những mức độ này có xu hướng duy trì ổn định. Chỉ khi mức độ tăng lên thì mới có thể tiến hành kiểm tra thêm.
Các nguyên nhân lành tính làm tăng nồng độ CA 15-3 như sau:
- Viêm gan mãn tính.
- Xơ gan.
- Bệnh lao.
- Sarcoidosis.
- Bệnh vú lành tính.
- Bệnh viêm vùng chậu.
- Lạc nội mạc tử cung.
- Lupus ban đỏ hệ thống.
- Cho con bú và mang thai.
Nguyên nhân ác tính làm tăng nồng độ CA 15-3 như sau:
- Ung thư phổi tế bào nhỏ
- Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ
- Khối u gan ác tính
- Ung thư đại trực tràng
- Khối u ác ở buồng trứng
- Ung thư nội mạc tử cung
- Ung thư tuyến tụy
Theo dõi sau khi có kết quả xét nghiệm CA15-3 như thế nào?
Nếu kết quả CA 15-3 tăng cao, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu các xét nghiệm bổ sung. Nếu độ cao là tối thiểu, bác sĩ có thể thực hiện phương pháp theo dõi và chờ đợi. Bạn có thể được yêu cầu kiểm tra lại vài tuần sau đó. Trường hợp, nồng độ CA15-3 vẫn tiếp tục tăng lên, bác sĩ có thể sẽ tiến hành kiểm tra bổ sung. Điều này có thể bao gồm:
- Các xét nghiệm hình ảnh. Chẳng hạn siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) hoặc xạ hình xương.
- Các xét nghiệm chỉ điểm khối u khác để kiểm tra các bệnh ung thư khác. Chẳng hạn như kháng nguyên CA 125 đối với ung thư buồng trứng hoặc alpha-fetoprotein đối với ung thư gan.
- Xét nghiệm máu để kiểm tra rối loạn chức năng gan, viêm gan siêu vi hoặc kháng thể tự miễn (phù hợp với bệnh lupus).
- Xét nghiệm để kiểm tra bệnh lao.
- Sinh thiết để kiểm tra bệnh sarcoidosis.
- Xét nghiệm tìm tế bào u trong hệ tuần hoàn (CTC), một xét nghiệm mới hơn được sử dụng để theo dõi di căn vú và một số bệnh ung thư khác.
Tóm lại, xét nghiệm CA 15-3 thường được sử dụng để theo dõi bệnh vú di căn. Nó có thể gây ra tình trạng căng thẳng và lo lắng. Đặc biệt, nếu đối mặt với sự gia tăng đột ngột của dấu chỉ điểm khối u này. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là CA 15-3 chỉ cung cấp một cái nhìn sơ lược về những gì đang thực sự diễn ra. Nó chỉ có giá trị khi được kiểm tra cùng với tiền sử bệnh lý và các xét nghiệm khác. Có sự gia tăng thoáng qua CA 15-3 không có nghĩa là ung thư đang lan rộng hoặc xâm lấn các cơ quan khác. Tương tự như vậy, sự giảm nhẹ nhất thời không có nghĩa là ung thư đang biến mất, vì ung thư di căn là không thể chữa khỏi.