Mang thai có thể là cảm giác hạnh phúc nhất của người phụ nữ nhưng lại là giai đoạn nhạy cảm và dễ tổn thương nhất, để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và bé thì cần phải theo dõi và kiểm soát thường xuyên. Mẹ và bé khi mang thai. Nhưng những xét nghiệp bà bầu nào được yêu cầu? Những bài kiểm tra nào được yêu cầu? Đây là câu hỏi được rất nhiều mẹ bầu quan tâm và lo lắng nhưng cũng đừng quá căng thẳng vì Klept.com.vn sẽ hướng dẫn bạn những thủ tục khám sức khỏe quan trọng và cần thiết nhất và để bạn hoàn thành bài kiểm tra cho Mẹ và con.
Xét nghiệm công thức máu toàn bộ
Xét nghiệm đầu tiên bạn sẽ cần khi mang thai là công thức máu toàn bộ, hoặc CBC, đo nhiều yếu tố trong máu của bạn, chẳng hạn như số lượng bạch cầu và hồng cầu mà bạn có.
Khi bạn mang thai, bác sĩ sẽ xem xét và tìm kiếm ba con số quan trọng trên kết quả CBC của bạn: hemoglobin, hematocrit và số lượng tiểu cầu.
Hemoglobin là một protein trong máu cung cấp oxy cho các tế bào của bạn, trong khi hematocrit là thước đo các tế bào hồng cầu trong cơ thể bạn. Nếu bất kỳ con số nào trong số này thấp, điều đó có thể cho thấy bạn bị thiếu máu, và dựa vào đó, bác sĩ sẽ đưa ra liệu trình điều trị để giải quyết tình trạng bệnh.
Tiểu cầu trong cơ thể là chất giúp cầm máu. Điều quan trọng là số lượng tiểu cầu phải ở trong giới hạn bình thường, vì phụ nữ mất trung bình 0,5 lít máu khi mang thai và số lượng tiểu cầu giúp bác sĩ xác định liệu lượng máu mất đi này có nằm trong giới hạn bình thường hay không. Cho phép giới hạn và không mất nhiều hơn nữa. Nếu số lượng của bạn bất thường, bác sĩ sẽ làm các xét nghiệm thêm để tìm ra vấn đề và điều trị phù hợp.
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
Ngoài việc kiểm tra các thành phần tế bào của máu trong thời kỳ đầu mang thai, các bác sĩ cũng sàng lọc các mẫu máu để tìm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) như HIV / AIDS, giang mai, herpes và viêm. Viêm gan B và C. Bệnh lậu và Chlamydia.
Điều quan trọng là phải phát hiện sớm những bệnh này khi mang thai vì chúng đều có thể di truyền sang thai nhi. Bệnh giang mai và HIV có thể lây nhiễm cho trẻ sơ sinh trong tử cung, trong khi các bệnh khác, chẳng hạn như chlamydia, bệnh lậu, viêm gan B và mụn rộp sinh dục, có thể lây nhiễm cho trẻ qua đường sinh khi sinh.
STDs có thể dẫn đến một loạt các biến chứng ở trẻ sơ sinh, bao gồm lây truyền, sinh non, nhiễm trùng mắt (do lậu và chlamydia) hoặc các hậu quả nghiêm trọng hơn như sẩy thai hoặc thai chết lưu (do giang mai).
Trong trường hợp nhiễm HIV, thuốc có thể được sử dụng để giảm nguy cơ truyền bệnh cho con từ 25% đến khoảng 7%. Mụn rộp sinh dục là một bệnh nhiễm vi-rút khác không có cách chữa khỏi, nhưng các bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật cắt lớp C nếu phụ nữ bùng phát trong quá trình chuyển dạ. Trong trường hợp mắc bệnh viêm gan B, nếu vi-rút được phát hiện sớm trong thời kỳ mang thai, thì có ít hơn 10% khả năng truyền bệnh cho em bé. Nếu phát hiện muộn hơn khi mang thai, tỷ lệ lây truyền tăng lên khoảng 90%. Chlamydia, giang mai và bệnh lậu có thể được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh an toàn cho con bạn.
Xét nghiệm kiểm tra yếu tố Rh
Theo nghiên cứu, khoảng 85% dân số hiện có xét nghiệm dương tính với Rh. Xét nghiệm Rh được thực hiện trên máu của phụ nữ mang thai và đôi khi là máu của người cha. Xét nghiệm yếu tố Rh (hoặc rhesus) tìm kiếm các protein được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào hồng cầu. Nếu bạn có protein này, bạn được coi là Rh dương tính và không có vấn đề cơ bản nào. Tuy nhiên, nếu bạn bị thiếu protein (Rh âm) và bố bạn mắc chứng rối loạn này, các biến chứng có thể phát sinh.
Trẻ sơ sinh có thể thừa hưởng nhóm máu Rh dương từ cha của chúng. Nếu điều này xảy ra, máu của em bé trộn lẫn với máu của mẹ, cơ thể mẹ có thể cảm nhận em bé bị dị ứng, và hệ thống miễn dịch có thể tấn công máu của em bé, gây ra phản ứng dị ứng. Thiếu máu tan máu của trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, máu của thai nhi hiếm khi trộn lẫn với máu của mẹ khi mang thai nên tình trạng này thường là vấn đề ở những lần mang thai sau. Điều này là do sự thay đổi máu có thể xảy ra trong lần sinh đầu tiên, và lần tiếp theo người mẹ Rh âm tính với đứa trẻ Rh dương tính, các kháng thể của người mẹ sẽ tấn công thai nhi.
Điều này có thể được ngăn ngừa bằng cách tiêm vắc-xin vào khoảng tuần thứ 28 của thai kỳ và 72 giờ sau khi sinh em bé đầu tiên.
Sàng lọc trước sinh
Sàng lọc trước sinh có hai loại là: Triple và quad
- Xét nghiệm triple: Tìm kiếm ba chất trong máu do thai nhi hoặc nhau thai sản xuất: alpha-fetoprotein (AFP), gonadotropin màng đệm ở người (hCG) và estriol.
- Xét nghiệm quad: Thêm chất ức chế A (Inh-A) vào hỗn hợp
Bằng cách đánh giá các chất này trong máu từ tuần thứ 15 đến 20 của thai kỳ và kết hợp chúng với các yếu tố như tuổi, cân nặng và sắc tố của người mẹ, nó có thể giúp bác sĩ xác định các dấu hiệu thiếu hụt & hội chứng.
Các xét nghiệm này có độ chính xác khoảng 80% trong việc dự đoán các khuyết tật ống thần kinh. Xét nghiệm bộ ba có độ chính xác khoảng 60% trong việc phát hiện hội chứng Down và xét nghiệm bộ ba chính xác khoảng 75%
Điều quan trọng cần biết là xét nghiệm này chỉ cho biết nguy cơ dị tật bẩm sinh của con bạn. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy thai nhi có nguy cơ, kết quả xét nghiệm được cho là dương tính. Như đã nói ở trên, xét nghiệm này chỉ mang tính chất dự đoán, vì vậy kết quả xét nghiệm dương tính không có nghĩa là con bạn chắc chắn sẽ bị dị tật bẩm sinh. Vì vậy, trong một số trường hợp, trẻ sinh ra khỏe mạnh, bình thường ngay cả khi có kết quả xét nghiệm sàng lọc bất thường.
Nếu xét nghiệm dương tính, bác sĩ có thể gợi ý bạn nên làm thêm những xét nghiệm chẩn đoán khác, ví dụ như:
- Chọc ối để kiểm tra nhiễm sắc thể của thai nhi
- Siêu âm để quan sát dấu hiệu của dị tật bẩm sinh.
Xét nghiệm nước tiểu
Phụ nữ mang thai đi tiểu dễ dàng hơn so với trước khi mang thai, vì vậy việc thu thập nước tiểu không phải là một việc khó khăn đối với phụ nữ mang thai.
Xét nghiệm nước tiểu để tìm các dấu hiệu giúp bác sĩ nắm được tình hình sức khỏe của người mẹ. Trong đó, đáng lo ngại nhất là đường huyết của mẹ bầu. Nếu nó quá cao, nó có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường thai kỳ, gây ra bởi các hormone thai kỳ ngăn insulin loại bỏ đường khỏi máu và có thể được điều chỉnh bằng chế độ ăn uống hoặc thuốc.
Ngoài ra, xét nghiệm nước tiểu còn cho bác sỹ biết nhiều thông tin khác liên quan đến sức khoẻ của bà bầu như:
- Protein trong nước tiểu, có thể chỉ ra nhiễm trùng thận
- Vi khuẩn chỉ ra một số nhiễm trùng liên quan đến đường tiết niệu
- Ketone xảy ra khi cơ thể sử dụng chất béo thay vì carbohydrate để tạo năng lượng và có thể có nghĩa là bạn bị mất nước hoặc thiếu dinh dưỡng
Từ những kết quả xét nghiệm trên bác sỹ sẽ xác định được tình trạng cũng như sức khoẻ của mẹ và thai nhi hiện tại để có phương pháp điều trị kịp thời và hiệu quả
Xét nghiệm dung nạp Glucose
Vào khoảng tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ, bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm đường huyết (GCT) để tầm soát bệnh tiểu đường thai kỳ. Đây là bước đệm để bác sĩ quyết định xem bạn có cần làm thêm các xét nghiệm hay không.
Phụ nữ mang thai cần hiểu rằng xét nghiệm glucose dương tính không có nghĩa là bạn bị tiểu đường thai kỳ. Do đó, bạn sẽ cần xét nghiệm dung nạp glucose (GTT), thường mất nhiều thời gian hơn và cho kết quả chính xác, giúp xác định bệnh tiểu đường thai kỳ.
Để xét nghiệm GTT cho kết quả chính xác, thai phụ cần nhịn ăn từ 8-12 tiếng trước khi đến làm xét nghiệm. Vì vậy, thời điểm tốt nhất để thi GTT là vào sáng sớm, tránh trường hợp bạn phải nhịn ăn quá lâu.
Nếu bạn bị tiểu đường thai kỳ, bác sĩ sẽ làm việc với bạn để lên kế hoạch ăn uống, tập thể dục và bổ sung insulin nếu cần thiết. Tình trạng này thường kết thúc khi trẻ được sinh ra.
Xét nghiệm liên cầu khuẩn nhóm B
Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, vì vậy các bác sĩ thường khuyến nghị xét nghiệm này cho tất cả phụ nữ mang thai từ 35 đến 37 tuần của thai kỳ.
Nếu kết quả xét nghiệm dương tính, trẻ có nhiều khả năng mắc bệnh khi sinh ra, có thể dẫn đến các tình trạng nghiêm trọng như: nhiễm trùng huyết, viêm phổi và viêm màng não. Tuy nhiên, nguy cơ này có thể giảm bớt nếu dùng kháng sinh qua đường tĩnh mạch trong quá trình chuyển dạ.
Những triệu chứng này bao gồm:
- Ối vỡ sớm trước 37 tuần
- Ối vỡ sớm trước 18 giờ hoặc lâu hơn trước khi sinh
- Sốt trong khi chuyển dạ
- Nhiễm trùng đường tiểu do Liên cầu nhóm B trong thời kỳ mang thai
- Tiền sử sinh trước đây bé bị nhiễm Liên cầu nhóm B
Siêu âm thai nhi
Siêu âm khi mang thai có thể là điều mà cả cha và mẹ đều mong chờ vì nó cho họ cái nhìn đầu tiên về con mình.
Trong quá trình siêu âm, một chất giống như thạch sẽ được bôi vào bụng của người phụ nữ và “cây đũa” siêu âm được di chuyển trên bề mặt da. Sóng âm tần số cao đi vào tử cung và dội ngược trở lại để tạo ra hình ảnh của thai nhi.
Ngoài việc siêu âm giúp các ông bố bà mẹ có thể nhìn thấy hình ảnh và hiểu được giới tính của em bé, các bác sĩ thực hiện siêu âm thai nhi vì những lý do khác. Xét nghiệm này hữu ích để tìm ra tuổi thai của em bé, giúp lập kế hoạch chăm sóc trước khi sinh và dự đoán ngày dự sinh. Nó cũng giúp xác định vị trí của thai nhi và đảm bảo rằng nó nằm đúng vị trí trong tử cung chứ không phải trong ống dẫn trứng, điều này cho thấy một tình trạng nguy hiểm được gọi là mang thai ngoài tử cung. Ngoài ra, siêu âm thai có thể đảm bảo thai nhi phát triển bình thường, giúp xác định các bất thường, kiểm tra nhau thai để đảm bảo thai nhi khỏe mạnh.
Siêu âm thai thường được tiến hành trong ba tháng đầu và khoảng giữa thai kỳ nhưng chúng có thể được sử dụng nhiều hơn nếu cần thiết vì chúng hoàn toàn an toàn.
Xác định huyết áp
Ngoài việc kiểm tra các tình trạng trên, bác sĩ sẽ xem xét trong máu và nước tiểu của bạn để tìm một tình trạng gọi là tiền sản giật. Trong máu, điều này có thể được chỉ ra bởi số lượng tiểu cầu thấp, trong khi trong nước tiểu, sự hiện diện của protein có thể chỉ ra điều này.
Ước tính có khoảng 7% phụ nữ mang thai bị tiền sản giật, đặc biệt là những bà mẹ lần đầu mang thai nhiều con. Đó là sự gia tăng huyết áp trong thai kỳ thường xảy ra trong ba tháng giữa thai kỳ và có những nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cả mẹ và bé, chẳng hạn như thiểu năng nhau thai hoặc nhau bong non. Nếu không được điều trị, nó có thể tiến triển thành sản giật, khi đó người mẹ có thể bị co giật đe dọa tính mạng.
Đó là lý do tại sao việc theo dõi huyết áp chặt chẽ trong suốt thai kỳ, đặc biệt là trong nửa sau của thai kỳ là vô cùng quan trọng. Nhưng quan trọng, huyết áp cao không có nghĩa là tiền sản giật, và nó cần được xác định thêm bằng protein trong nước tiểu.
Theo dõi nhịp tim của thai nhi
Theo dõi nhịp tim cũng là một cách để biết thai nhi có khỏe mạnh hay không? Vì vậy, mẹ bầu không được bỏ qua phương pháp tưởng chừng như đơn giản nhưng hiệu quả này. Các bác sĩ theo dõi nhịp tim của em bé bằng cách sờ vào bụng của người mẹ để đưa ra kết luận về sức khỏe của em bé.
Đặc biệt là trong quá trình chuyển dạ, khi các cơn co thắt tạm thời hạn chế lượng oxy đến thai nhi, nhịp tim của em bé sẽ thay đổi một cách tự nhiên khi chào đời. Tuy nhiên, bất kỳ thay đổi nào ngoài phạm vi bình thường, khoảng 110-160 nhịp mỗi phút, có thể là dấu hiệu cho thấy em bé không nhận đủ oxy và các bác sĩ cần thực hiện các bước để khắc phục tình hình.
Phương pháp EFM là phương pháp theo dõi thai nhi điện tử cho phép hai đai quấn quanh bụng mẹ, một để đo nhịp tim của em bé và một để đo các cơn co thắt, từ đó các bác sĩ có thể dễ dàng xác định được nhịp tim và nồng độ oxy đang ảnh hưởng như thế nào đến thai nhi. thai nhi và có biện pháp điều trị hiệu quả.
Trên đây là những xét nghiệm cần thiết mà mẹ bầu cần biết để có một thai kỳ khoẻ mạnh cho cả mẹ và bé. Mong rằng những gợi ý trên của Klept.com.vn sẽ giúp ích cho bạn.